Kỳ 1: http://on.fb.me/13vUomc
Có thể nói, làm TMĐT đã khó, nhưng làm
TMĐT tại Việt Nam còn khó hơn nhiều lần,
không dễ như nhiều bạn bên ngoài nhìn vào và đánh
giá. Bởi tại Việt Nam, TMĐT chưa phát triển
mà mới bắt đầu nhen nhóm. Cái gì mới, lần
đầu tiên cũng đều bỡ ngỡ và khó
khăn cả.
Các khó khăn này nó nằm trong tầm kiểm
soát và cả ngoài tầm kiểm soát, nó đến từ
bên trong lẫn bên ngoài, từ chủ quan đến khách
quan. Do vậy, để khái quát hoá, tôi chia các khó khăn
đó ra làm hai dạng: khó khăn khách quan và khó khăn
chủ quan.
I. Khó khăn khách quan
1. Thị phần bé
Như ở kỳ 1 tôi đã nêu
chi tiết thì hiện nay chỉ mới được
khoảng hơn 2 triệu khách hàng mua hàng qua TMĐT – con
số quá bé so với hơn 35 triệu người dùng internet và dân số 90 triệu người dân
Việt Nam.
Nếu xét về doanh số, tại Việt Nam
rất khó thống kê chính xác nhưng ước tính
đạt khoảng gần $500 triệu trong năm 2012 (có
một số báo cáo và phát biểu nói rằng doanh số 2
tỷ đô, con số này theo tôi là không
đáng tin cậy). Đem so với các cường quốc
về TMĐT trên thế giới như Mỹ (343 tỷ),
Nhật (127 tỷ), Anh (124 tỷ) và Trung Quốc (110
tỷ) thì thị trường TMĐT thật quá nhỏ
bé.
Chính vì thị phần bé như vậy, nên khi
triển khai mô hình TMĐT cụ thể, việc lựa
chọn đối tượng khách hàng khá khó khăn và
phải rất thận trọng để đưa ra mô
hình phục vụ phù hợp với phân khúc khách hàng mình
lựa chọn
2. Thói quen mua hàng
·
Vẫn tâm lý ra
cửa hàng tạp hoá đầu ngõ để mua những
đồ dùng thiết yếu hay ra các cửa hàng offline
để mua sắm các đồ dùng, đồ thời
trang và đồ công nghệ.
·
Thói quen thích nhìn
tận mắt, sờ tận tay
·
Thói quen thanh toán
bằng tiền mặt
3. Niềm tin
Người tiêu dùng tại Việt Nam vẫn
chưa đặt niềm tin vào mua sắm trực
tuyến, họ vẫn có cái nhìn thiếu thiện cảm
với các hình thức kinh doanh trên mạng. Thực tế,
có rất nhiều khách hàng phản ánh rằng sản
phẩm họ nhận được khác xa với
những gì họ nhìn thấy trên website, do vậy niềm
tin vào TMĐT cũng bị lung lay.
Nguyên nhân của thực trang này là do TMĐT
đang bị lạm dụng, bóp méo bởi sự làm ăn thiếu chuyên nghiệp của các
đơn vị cung cấp sản phẩm. Điển
hình như vụ việc MB24 đã lợi dụng danh
nghĩa TMĐT để phục vụ lợi ích riêng cho
mình khiến cho khách hàng hiểu sai về TMĐT. Một
số khác thì dùng kênh TMĐT để phân phối hàng
giả, hàng nhái kém chất lượng nhằm qua mắt
người tiêu dùng – một cách làm ăn
rất chụp giựt.
4. Hạ tầng thanh toán
– Thanh toán qua thẻ còn ít
– Các bước thanh toán qua internet banking rắc
rối và không nhất quán giữa các ngân hàng
– Thẻ chủ yếu dùng để nhận
lương và rút tiền tại ATM
– Chi phí giao dịch cao
– Hình thức thanh toán chưa đa dạng
– Cơ chế hoàn tiền còn chậm và chưa
rõ ràng
– Hành lang pháp lý còn lỏng lẻo
5. Dịch vụ giao nhận
– Chưa có đơn vị thứ 3 thực
sự chuyên nghiệp để đảm bảo tốt
dịch vụ giao nhận mà không ảnh hưởng
đến chất lượng phục vụ, hầu
hết các đơn vị làm TMĐT đều phải
tự xây dựng đội ngũ giao nhận để
nắm quyền chủ động trong việc kiểm
soát và điều phối hiệu quả cũng như
chất lượng phục vụ khách hàng
– Do đặc thù địa lý Việt Nam
trải dài, mặt khác volume thị trường còn bé
đồng thời việc tự tổ chức
đội ngũ giao nhận khiến
cho chi phí giao nhận rất cao, chiếm từ 10-15% giá
trị của 1 giao dịch.
6. Vốn đầu tư
Đầu tư vào TMĐT là dài hạn và
đốt tiền, thậm chí đốt rất nhiều
tiền. Chi phí cho nhân sự, marketing, stock hàng là những chi
phí rất lớn. Nếu không có khoản đầu tư
lớn thì chỉ đi được nửa
đường là chết, khi mà lợi nhuận chưa
thể bù đắp cho khoản tiền đầu tư
để educate thị trường, để làm brand và
hoàn thiện quy trình.
Do vậy bạn nào đang hi vọng làm TMĐT
sẽ thu lời được ngay thì
tốt nhất đừng dấn thân vào TMĐT làm gì. Theo
nguồn tin cá nhân thì tất cả các đơn vị
đang đầu tư cho TMĐT tại Việt Nam thì
chưa có đơn vị nào có lãi (trừ một số
dự án vertical e-commerce), mà ngược lại số
tiền đầu tư đã lên đến hàng triệu
đô.
II. Khó khăn chủ quan
1. Khó khăn chung
Xét một cách toàn diện thì các đơn
vị làm TMĐT vẫn đang ở tâm lý vừa làm
vừa thăm dò thị trường và tìm cách phản
ứng để phù hợp với tâm lý người tiêu
dùng. Do vậy việc triển khai khó có thể diễn ra
bài bản ngày từ đầu và xuyên suốt trong quá trình
hoạt động.
Mặt khác, rất nhiều đơn vị làm
TMĐT vẫn chưa hiểu rõ thấu đáo sự khác
biệt của TMĐT với bán hàng offline truyền
thống, vẫn bê nguyên tư duy vận hành offline lên online,
dẫn đến sự phản ứng chậm chạp,
thiếu chuyên nghiệp và không phát huy hết lợi thế
của online, chưa đánh trúng tâm lý của người
tiêu dùng online.
Người tiêu dùng online có những hành vi và tâm lý mua hàng khác với người tiêu
dùng offline. Người làm TMĐT cần hiểu rõ tâm lý
đối tượng khách hàng của mình để có
thể đưa ra những phương thức phục
vụ phù hợp.
2. Khó khăn của từng mô hình
a. Mô hình sàn giao dịch
– Người dùng thường tìm đến các
website có nhiều tin để đọc, và ngược
lại người bán cũng tìm đến website có
nhiều người đọc để đăng tin
rao. Do đó, khi thiết lập mới một sàn giao
dịch TMĐT, cần phải có được ngay
lượng thông tin phong phú để thu
hút người đọc, đặc biệt việc làm
SEO sẽ giúp cho website có được nguồn traffic
tự nhiên cực lớn
– Giao dịch trên các sàn giao dịch hầu
như không có, mà đó chỉ là nơi người bán và
người mua gặp nhau, sau đó tự liên lạc và
thoả thuận hình thức bán hàng và thanh toán. Vì thế
độ tin cậy sẽ không cao.
– Bài toán kiếm tiền từ mô hình này khá
đơn giản, khiến cho việc muốn tăng
mạnh doanh số rất khó khăn. Các mô hình tiêu biểu
bao gồm: bán banner quảng cáo, bán tin VIP, bán lượt
hiển thị các trang đầu
b. Mô hình website bán lẻ
– Khó khăn lớn nhất của mô hình này là
kiểm soát hàng tồn kho. Để hàng tồn kho quá lâu và
không có sự kiểm soát chặt chẽ và thường
xuyên thì tất cả những khoản lãi thu
được đều không đủ để bù
lỗ cho chi phí hàng tồn kho
– Khó khăn thứ hai là tạo được
sự tin cậy và minh bạch về thông tin hàng hoá, giá
cả, để cho tỷ lệ chuyển đổi (CR)
phải luôn ở mức cao nhất nhằm tiết
kiệm chi phí marketing, nâng cao hiệu quả bán hàng. Theo kinh
nghiệm của tôi thì các website TMĐT phải đảm
bảo tỷ lệ chuyển đổi ở mức
tối thiểu 1% (CR=1%), có nghĩa là 100 người truy
cập vào website của bạn thì ít nhất phải có 1
người mua hàng. Nhưng thực tế rất ít
đơn vị đầu tư cho việc tracking
hiệu quả và liên tục cải tiến để
tăng CR.
– Khó khăn thứ 3 là đảm bảo
chất lượng dịch vụ logistic từ khâu giao
hàng, hỗ trợ sau bán, bảo hành, đổi trả hàng
hoá đều phải chính xác, thân thiện và nhanh chóng.
Mỗi nhân viên giao hàng, nhân viên CSKH đều phải là
đại sứ bán hàng của công ty.
– Khó khăn thứ 4 là về margin, nếu
bạn bán được nhiều thì các nhà phân phối
mới chiết khấu cao cho bạn, nếu không thì %
chiết khấu sẽ thấp và khó cạnh tranh về giá
với đối thủ và thị trường offline.
Ngược lại, nếu bạn để giá cao thì khó
bán hàng, dẫn đến sản lượng thấp. Do
vậy bạn cần cân đối thật chắc
chắn về chính sách giá cũng như doanh số bán hàng.
– Khó khăn thứ 5 là cá lớn nuốt cá bé.
Các ông lớn sẵn sàng vung tiền để phủ
thị trường, để đạt quy mô và
được giá tốt, lúc này việc cạnh tranh
giữa các đơn vị quy mô nhỏ sẽ khó khăn
hơn rất nhiều.
c. Mô hình website khuyến mãi,
giảm giá
Ở mô hình này thì ngoài khó khăn như mô hình
website bán lẻ, nó còn có khó khăn rất lớn đó là
làm việc và thuyết phục nhà cung cấp đồng ý
giảm giá ở mức đủ để hấp
dẫn khách hàng mà nhà cung cấp không được lỗ
hoặc chỉ lỗ ít để mang lại nguồn thu
cũng như khách hàng mới cho họ.
Khách hàng của mô hình này thông thường kém
trung thành, nên việc giữ chân khách hàng là điều
rất khó. Do vậy cần có những quyết
định trong chiến lược để khai thác
lợi nhuận ngắn hạn từ những khách hàng có
được, tránh việc đầu tư dài hạn
để lấy user với hi vọng sau đó sẽ khai
thác từ tập khách hàng đó.
d. Mô hình website đấu giá
trực tuyến
Rõ ràng rằng tại Việt Nam, mô hình này
đang gặp rào cản rất lớn đó là thiếu
niềm tin. Tôi không tin là tôi đấu giá có thể trúng
với giá rẻ, tôi không tin các nhà cung cấp sẵn sàng cho
đi sản phẩm của mình chỉ nhằm mục
đích quảng bá,… có hàng vạn lý do để
người tham gia không tin vào hình thức này.
Để làm mô hình này thành công, trước
hết website đấu giá phải đảm bảo
mọi yếu tố đều minh bạch và show
được nó cho khách hàng thấy để họ
khỏi nghi ngờ chân gỗ hay sự thiếu trung
thực.
e. Mô hình localize e-commerce và dịch
vụ
– Về localize e-commerce, sự mở rộng
thị trường rất khó khăn và chậm do yếu
tố địa phương hoá. Mặt khác, yếu
tố chất lượng dịch vụ được
đặt lên hàng đầu. Do vậy áp lực về
chất lượng dịch vụ rất lớn, đòi
hỏi người làm mô hình này phải kiểm soát
tốt, song song với đó là chi phí đầu tư cho
dịch vụ phải cao thì mới đảm bảo
được chất lượng theo
yêu cầu. Ví dụ về mô hình gọi món online, nếu sau
30-45 phút mà không giao được đồ ăn cho khách
thì khách sẵn sàng huỷ order ngay lập tức.
– Về các website dịch vụ như
đặt bàn, đặt chỗ, đặt phòng khách
sạn,… thì khó kiểm soát
được chất lượng của nhà cung cấp.
Bởi lẽ mô hình này chỉ là yếu tố trung gian
kết nối khách hàng với merchant. Nếu merchant không làm
hài lòng khách hàng thì sẽ khó chiêu dụ khách hàng quay lại
sử dụng tiếp dịch vụ của website. Do
vậy cần kết hợp với các merchant để
cùng kiểm soát chất lượng dịch vụ của
merchant.
Kết luận:
Để triển khai TMĐT thành công, bạn
phải hiểu rất rõ về những gì bạn đang
có và hiểu rõ về ngành hàng cũng như phân khúc khách hàng
bạn đang nhắm tới, nhằm phát triển và
chiếm tối đa thị phần trong mảng mình kinh
doanh. Chất lượng dịch vụ và kiểm soát
tồn kho, thất thoát là hai khó khăn lớn nhất trong
việc triển khai TMĐT nhưng nó lại là yếu
tố sống còn để quyết định mô hình
TMĐT của bạn có thành công hay không.
(Kỳ 3: TMĐT nghĩa là kết hợp online
và offline, không thể tách rời – http://on.fb.me/19fgc6B)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét